Đánh giá một lần

One Audit

Cấp một chứng chỉ

One Certificate

Được chấp nhận ở mọi nơi

Accepted Everywhere

Hoàn thiện thể chế về tiêu chuẩn đo lường chất lượng, thúc đẩy số hóa và hội nhập quốc tế

17/07/2025
15

Trong 6 tháng đầu năm 2025, ngành Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (TCĐLCL) ghi nhận những bước tiến rõ nét về thể chế, hạ tầng kỹ thuật và hội nhập quốc tế. Từ việc sửa đổi các luật chuyên ngành, hài hòa tiêu chuẩn quốc tế, đến tăng cường đánh giá sự phù hợp và truy xuất nguồn gốc, TCĐLCL đang khẳng định vai trò là nền tảng kỹ thuật hỗ trợ quản lý chất lượng, nâng cao năng suất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hội nhập toàn diện.

Bứt phá trong ngành tiêu chuẩn đo lường chất lượng

Trong 6 tháng đầu năm, hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng đã có nhiều bứt phá nổi bật, điển hình trong số đó là ngày 14/6 và 18/6/2025, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Hai luật này đã hoàn thiện hành lang pháp lý, giảm thủ tục, tăng quản lý theo rủi ro, thúc đẩy số hóa, hài hòa tiêu chuẩn quốc tế. Qua đó, hỗ trợ doanh nghiệp giảm chi phí, nâng sức cạnh tranh, mở rộng thị trường và thúc đẩy hội nhập sâu rộng.

Chỉ đạo nghiên cứu và ban hành phương pháp và kế hoạch đánh giá đóng góp của tiêu chuẩn đo lường chất lượng (TCĐLCL) vào GDP, kết quả bước đầu cho thấy chỉ số hạ tầng chất lượng quốc gia (VQII) tăng trưởng ổn định, lũy kế 6 tháng đầu năm đóng góp khoảng 5,53 tỷ USD vào GDP, khẳng định vai trò thiết yếu của TCĐLCL trong nâng cao năng suất, chất lượng, hỗ trợ phát triển bền vững và hội nhập kinh tế.

Trong công tác chỉ đạo, điều hành, về phát triển tiêu chuẩn và quy chuẩn: Hiện nay, số tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) được công bố đạt 408 tiêu chuẩn, tăng 4,1%; số quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) được tiếp nhận đăng ký đạt 21, tăng 10,5%; số quy chuẩn kỹ thuật địa phương (QCĐP) được tiếp nhận đăng ký là 13, tăng 18,2%. Đáng chú ý, số tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC được chấp nhận là TCVN tăng mạnh, từ 102 lên 128, tương ứng mức tăng 25,5%, cho thấy định hướng hội nhập và hài hòa hóa tiêu chuẩn quốc tế đang được đẩy mạnh.

Bên cạnh đó, hoạt động quản lý đo lường và năng lực hạ tầng kỹ thuật tiếp tục được củng cố. Số mẫu phương tiện đo được phê duyệt đạt 3086 mẫu, tăng 40% so với cùng kỳ. Số tổ chức kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo và chuẩn đo lường đăng ký đạt 154 tổ chức (tăng 7,8%), số tổ chức được chỉ định là 118 (tăng 7,6%). Số chuẩn đo lường được chứng nhận đạt 4825 chuẩn, tăng 33%; số chứng nhận kiểm định viên được cấp là 1700, tăng 41,9%; số tổ chức được chỉ định thực hiện kiểm định đối chứng đạt 20 đơn vị, giảm 20% góp phần đáp ứng nhu cầu kiểm định, hiệu chuẩn phương tiện đo nhằm duy trì độ chính xác của phương tiện đo, phép đo trong sản xuất, kinh doanh.

Hoạt động đánh giá sự phù hợp có chuyển biến tích cực cả về quy mô và chất lượng. Số tổ chức thử nghiệm, chứng nhận, giám định, kiểm định đã được cấp Giấy chứng nhận đạt 193 tổ chức (giảm 32,52%), số tổ chức được chỉ định đã được cấp Giấy chứng nhận là 06 tổ chức (tăng 500%). Hoạt động mã số mã vạch tiếp tục phát triển, với 4035 doanh nghiệp (giảm 31,65%) góp phần quan trọng thúc đẩy truy xuất nguồn gốc, minh bạch hóa thông tin hàng hóa trên thị trường. Số hồ sơ đăng ký kiểm tra nhà nước về chất lượng xăng, nhiên liệu điêzen và nhiên liệu sinh học, LPG, dầu nhờn động cơ đốt trong nhập khẩu: Tiếp nhận 2171 hồ sơ (tăng 10,82%).

Ngoài ra, việc cấp mã số mã vạch cho doanh nghiệp tiếp tục được đẩy mạnh, với số doanh nghiệp, tổ chức được cấp mã tăng 8,7% và số loại sản phẩm được định danh sử dụng mã số mã vạch tăng 13%, góp phần hỗ trợ hiệu quả quản lý sản phẩm, phát triển thị trường (06 tháng đầu năm 2025 đã cấp 2.621 mã số, mã vạch cho các tổ chức, cá nhân; cấp 4.641 Giấy chứng nhận quyền sử dụng mã số, mã vạch).

Trong công tác tham mưu, đề xuất quản lý, chỉ đạo, điều hành, Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia đã hoàn thiện, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ: Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Nghị định của Chính phủ về hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng; Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật; Quyết định phê duyệt Chiến lược Tiêu chuẩn hóa quốc gia đến năm 2030.

Đồng thời, ban hành theo thẩm quyền các Thông tư: Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 28/2012/TT-BKHCN ngày 12/12/2012 quy định về công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy và phương thức đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 02/2017/TT-BKHCN ngày 31/3/2017 (Thông tư số 04/2025/TT-BKHCN ngày 31/5/2025); Thông tư sửa đổi, bổ sung bãi bỏ một số điều của Thông tư số 15/2015/TT-BKHCN ngày 25/8/2015 quy định về đo lường, chất lượng trong kinh doanh xăng dầu đã được sửa đổi bổ sung tại Thông tư số 08/2018/TT BKHCN ngày 15/6/2018 (Thông tư số 06/2025/TT-BKHCN ngày 04/6/2025); Thông tư quy định về phân cấp, phân định thẩm quyền khi tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ KH&CN (Thông tư số 07/2025/TT BKHCN ngày 20/6/2025).

Ủy ban TCĐLCL Quốc gia cũng tập trung xây dựng Đề án tăng cường hội nhập quốc tế về tiêu chuẩn đo lường chất lượng theo Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 38-CT/TW, làm cơ sở định hướng chiến lược trong giai đoạn tới. Nghiên cứu, tính toán mức đóng góp của ngành TCĐLCL vào tăng trưởng GDP của Việt Nam thông qua việc ban hành: phương pháp đánh giá tác động của hoạt động TCĐLCL đối với tăng trưởng kinh tế; kế hoạch triển khai thống kê, tính toán theo tần suất hằng tháng, quý và năm. Ngoài ra, hỗ trợ các địa phương triển khai kết nối Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa quốc gia; xây dựng mô hình điểm truy xuất nguồn gốc các sản phẩm đặc trưng của địa phương.

Phối hợp với Tổ chức UL (Hoa Kỳ), Viện Đo lường Đức (PTB), tiếp và làm việc với các đối tác quốc tế như Đại sứ quán Thụy Điển, Italia, EU, Hàn Quốc, Trung Quốc… tổ chức hội thảo chuyên đề về các nội dung liên quan đến tiêu chuẩn hóa, đánh giá sự phù hợp, chuyển đổi số, kinh tế xanh và hỗ trợ doanh nghiệp. Tổ chức triển khai các cam kết về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) hoặc tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy trình đánh giá sự phù hợp trong các FTA của ASEAN và các đối tác quốc tế.

6 tháng đầu năm, hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng đã có những bứt phá nổi bật. (ảnh chụp lưu niệm của Đoàn Ủy ban TCĐLCL Quốc gia với Lãnh đạo Quốc hội tại nhà Quốc hội)

Tháo gỡ khó khăn, vướng mắc

Bên cạnh thuận lợi nói trên, ngành TCĐLCL cũng gặp không ít khó khăn, trong đó, nhiều tiêu chuẩn còn chung chung, chưa cụ thể cho công nghệ mới (AI, sinh học, năng lượng xanh…). Rà soát, cập nhật tiêu chuẩn còn chậm; mức độ áp dụng không đồng đều, nhất là ở DNNVV; thiếu cơ chế huy động nguồn lực xã hội, đội ngũ chuyên gia kỹ thuật còn mỏng. Hệ thống chuẩn đo lường chưa đồng bộ, hệ thống các tổ chức cung cấp dịch vụ kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo, chuẩn đo lường phân bố chưa hợp lý, ứng dụng công nghệ thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia còn chậm.

Hệ thống tổ chức đánh giá sự phù hợp phân bố chưa hợp lý, năng lực không đồng đều giữa các tổ chức. Hoạt động truy xuất nguồn gốc chưa được triển khai rộng rãi, tỷ lệ sản phẩm kết nối dữ liệu thấp. Mã số mã vạch chưa gắn chặt với chuỗi cung ứng. Thiếu chiến lược dài hạn, hạ tầng kỹ thuật và số hóa còn phân tán, dữ liệu chưa đồng bộ.

Để khắc phục những khó khăn, Ủy ban TCĐLCL Quốc gia cần xây dựng chiến lược quốc gia về tiêu chuẩn hóa, ưu tiên lĩnh vực công nghệ mới, xanh, số; Đẩy nhanh rà soát, cập nhật tiêu chuẩn lạc hậu; tăng hài hòa với quốc tế; Khuyến khích xã hội hóa, huy động nguồn lực ngoài ngân sách; tăng cường đào tạo, phát triển đội ngũ chuyên gia; Tăng truyền thông, nâng cao nhận thức và hỗ trợ DNNVV áp dụng tiêu chuẩn.

Triển khai thực hiện đúng kế hoạch kế hoạch phát triển chuẩn đo lường quốc gia đến năm 2030 theo Quyết định số 1488/QĐ-TTg ngày 24/11/2023 của Thủ tướng Chính phủ; Đẩy mạnh số hóa, xây dựng cơ sở dữ liệu đo lường quốc gia, kết nối trung ương – địa phương; Bồi dưỡng nhân lực đo lường, tăng cường phối hợp các cấp trong công tác kiểm tra nhà nước về đo lường, xây dựng kế hoạch phát triển hệ thống các tổ chức cung cấp dịch vụ kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo, chuẩn đo lường hợp lý.

Hoàn thiện khung pháp lý phù hợp thông lệ quốc tế. Đầu tư hạ tầng kỹ thuật, nền tảng số, kết nối dữ liệu truy xuất với chuỗi cung ứng. Hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là DNNVV nâng cao năng lực giám sát, quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

Nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm

Thứ nhất, xây dựng, trình Chính phủ ban hành một số Nghị định: Nghị định hướng dẫn Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật; Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Nghị định về nhãn hàng hóa; Nghị định quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đánh giá sự phù hợp; Nghị định quy định quản lý chất lượng, sản phẩm, dịch vụ Halal; Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 105/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016, Nghị định 154/2018/NĐ-CP ngày 9/11/2018.

Thứ hai, xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án, Chiến lược: Chiến lược tiêu chuẩn hóa quốc gia đến năm 2030; Đề án tăng cường hội nhập quốc tế về tiêu chuẩn đo lường chất lượng được giao tại Quyết định số 1703/QĐ-TTg ngày 31/12/2024 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị số 38-CT/TW ngày 30/7/2024.

Thứ ba, xây dựng, ban hành các Thông tư ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về trụ sạc xe điện.

Thứ tư, triển khai đồng bộ cơ sở dữ liệu về mã số mã vạch, truy xuất nguồn gốc, kết nối với hệ thống nền tảng quốc gia phục vụ quản lý và dịch vụ công. Tăng cường hướng dẫn doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn, kiểm tra đo lường, đánh giá sự phù hợp, truy xuất nguồn gốc theo quy định.

vietQ
Chào mừng đến với Quacert