Chiều ngày 19/9, Uỷ ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia tổ chức hội nghị trực tuyến với các Sở khoa học và Công nghệ, Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng quý III/2025.
Tham dự hội nghị có ông Nguyễn Nam Hải – Chủ tịch Uỷ ban TCĐLCL Quốc gia (Ủy ban); ông Trần Hậu Ngọc – Phó Chủ tịch Uỷ ban; đại diện các đơn vị trực thuộc Uỷ ban và hơn 1.200 đại biểu từ 34 Sở Khoa học và Công nghệ, Chi cục TCĐLCL, UBND phường, xã các địa phương theo hình thức trực tuyến.
Phát biểu khai mạc, ông Nguyễn Nam Hải – Chủ tịch Uỷ ban TCĐLCL Quốc gia cho biết, thời gian qua, việc triển khai mô hình tổ chức hai cấp và thực hiện hợp nhất tại các tỉnh, thành phố tạo ra nhiều thay đổi trong phương thức vận hành, đặc biệt là trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng. Những thay đổi này không chỉ tác động đến cách thức tổ chức bộ máy mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến việc triển khai các hoạt động chuyên môn ở địa phương.
Chính vì vậy, hội nghị lần này là dịp hết sức quan trọng để các đơn vị chia sẻ thực tiễn triển khai, phản ánh những khó khăn, vướng mắc phát sinh cũng như đề xuất các giải pháp phù hợp. Đồng thời, cũng là cơ hội để tiếp thu ý kiến đóng góp quý báu, từ đó hoàn thiện cơ chế phối hợp và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng tại địa phương trong giai đoạn mới.

Ông Nguyễn Nam Hải – Chủ tịch Uỷ ban TCĐLCL Quốc gia và ông Trần Hậu Ngọc – Phó Chủ tịch Uỷ ban TCĐLCL Quốc gia tham dự hội nghị trực tuyến.
Tham luận tại hội nghị, bà Phạm Thị Phương Thảo – Phó trưởng ban Ban Tiêu chuẩn cho biết, Dự thảo Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (sửa đổi, bổ sung) 2025 đã được trình tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV. Luật đã được Quốc hội thông qua vào ngày 14 tháng 6 năm 2025 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2026. Luật này sửa đổi, bổ sung 45 trên 71 Điều, đồng thời bãi bỏ 11 Điều và toàn bộ Chương VI về thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp trong lĩnh vực tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật.
Theo bà Thảo, Luật mới đưa ra một số thay đổi quan trọng nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Trong đó, hoàn thiện cơ sở pháp lý về Cơ sở hạ tầng chất lượng quốc gia (NQI). Các quy định mới bao gồm: Cơ quan Tiêu chuẩn quốc gia; Chiến lược Tiêu chuẩn quốc gia; Cơ sở dữ liệu quốc gia về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Luật cũng hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn tại doanh nghiệp. Cụ thể: Có chính sách thúc đẩy doanh nghiệp tham gia xây dựng tiêu chuẩn quốc tế; Quy định rõ ràng hơn về quyền hạn, nghĩa vụ của tổ chức, doanh nghiệp; Tiêu chuẩn cơ sở (TCCS) của doanh nghiệp phải được công bố trên hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia.
Bên cạnh đó, sửa đổi hoàn thiện cơ sở pháp lý về quy trình xây dựng Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) và Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCKT). Những thay đổi chính bao gồm: Bổ sung quy định về việc xây dựng TCVN, QCVN theo trình tự, thủ tục rút gọn; Quy định quá trình xây dựng QCKT phải có báo cáo đánh giá tác động và được công khai trên Cơ sở dữ liệu quốc gia; Phân cấp, phân quyền trong việc xây dựng và thẩm định QCVN, quy chuẩn địa phương (QCĐP).
“Luật cải thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động hợp chuẩn và hợp quy. Các điểm đáng chú ý bao gồm: Chứng nhận tiêu chuẩn cơ sở của Hiệp hội; Công bố hợp chuẩn, hợp quy phải được thực hiện trực tuyến, trên hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia; Miễn công bố hợp quy đối với các sản phẩm, hàng hóa được điều chỉnh bằng các biện pháp quản lý nhà nước tương ứng theo pháp luật chuyên ngành; Thừa nhận đơn phương kết quả đánh giá sản phẩm, hàng hóa của tổ chức nước ngoài”, bà Thảo cho biết thêm.
Chia sẻ về một số nội dung mới của Luật sửa đổi, bổ sung Luật Chất lượng SPHH, bà Nguyễn Thị Mai Hương – Trưởng ban Ban Quản lý chất lượng và Đánh giá sự phù hợp cho biết, Luật mới bao gồm 9 nội dung hoàn toàn mới, mang tính đột phá trong công tác quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Theo đó, hoàn thiện cơ sở pháp lý về Cơ sở hạ tầng chất lượng quốc gia (NQI), thúc đẩy doanh nghiệp tham gia xây dựng tiêu chuẩn quốc tế, bổ sung quy trình xây dựng TCVN/QCVN theo thủ tục rút gọn. Luật cũng quy định công bố hợp chuẩn, hợp quy trực tuyến trên hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia và thừa nhận đơn phương kết quả đánh giá sản phẩm của tổ chức nước ngoài.


Hội nghị diễn ra theo hình thức trực tiếp và trực tuyến.
Song song đó, chuyển đổi phương thức quản lý từ phân nhóm hành chính sang quản lý theo rủi ro, ưu tiên hậu kiểm thay vì tiền kiểm. Các sản phẩm có rủi ro cao sẽ được chứng nhận hợp quy bởi tổ chức được chỉ định, trong khi sản phẩm rủi ro trung bình được tự đánh giá hoặc đánh giá hợp quy bởi tổ chức được công nhận. Luật cũng lần đầu tiên luật hóa NQI như một hệ sinh thái và cho phép ứng dụng công nghệ số, AI và dữ liệu lớn trong quản lý chuỗi cung ứng và truy xuất nguồn gốc.
Bên cạnh đó, các quy định mới tăng cường quản lý chất lượng sản phẩm trên nền tảng số, quy định rõ trách nhiệm của sàn thương mại điện tử, đồng thời tăng chế tài xử lý vi phạm bằng cách bổ sung hình sự hóa và thu hồi giấy phép. Ngoài ra, Luật còn hỗ trợ chi phí thử nghiệm, chứng nhận cho các sản phẩm thuộc chương trình của Nhà nước nhằm giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) nâng cao chất lượng.
Trao đổi hướng dẫn về trình tự, thủ tục, hồ sơ xây dựng, thẩm định và ban hành Quy chuẩn kỹ thuật địa phương, ông Triệu Việt Phương – Viện trưởng Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam cho biết, Quy chuẩn kỹ thuật địa phương (QCĐP) là các quy chuẩn do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành. QCĐP áp dụng cho các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và quá trình đặc thù của địa phương. Các quy định này phải phù hợp với đặc điểm về địa lý, khí hậu, thủy văn và trình độ phát triển kinh tế – xã hội của từng địa phương.
Cũng theo ông Phương, trình tự xây dựng và ban hành QCĐP, tài liệu hướng dẫn một quy trình gồm 11 nội dung: Thứ nhất, lập dự thảo kế hoạch: Các cơ quan, tổ chức, cá nhân đề xuất kế hoạch xây dựng QCĐP. Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố xem xét và tổ chức lập dự thảo kế hoạch cho năm sau. Kế hoạch này cần đáp ứng yêu cầu quản lý của địa phương và không tạo rào cản kỹ thuật không cần thiết;
Thứ 2, lấy ý kiến và hoàn chỉnh dự thảo kế hoạch; Thứ 3, phê duyệt kế hoạch xây dựng QCĐP; Thứ 4, thực hiện kế hoạch: Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố triển khai kế hoạch đã được phê duyệt và báo cáo định kỳ cho Bộ Khoa học và Công nghệ; Thứ 5, điều chỉnh, bổ sung kế hoạch: Kế hoạch có thể được điều chỉnh về tiến độ, đối tượng, nội dung và kinh phí. Thời gian đề nghị điều chỉnh ít nhất 6 tháng trước khi kết thúc nhiệm vụ;
Thứ 6, xây dựng dự thảo QCĐP: Dự thảo phải có bố cục rõ ràng, bao gồm phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, yêu cầu kỹ thuật và các quy định quản lý; Thứ 7, lấy ý kiến và hoàn chỉnh dự thảo QCĐP; Thứ 8, thẩm tra và xin ý kiến Bộ quản lý chuyên ngành; Thứ 9, ban hành Quy chuẩn kỹ thuật địa phương; Thứ 10, thông báo, phổ biến, đăng ký và phát hành QCĐP và cuối cùng là rà soát, sửa đổi, thay thế, hủy bỏ QCĐP.
Tại hội nghị cũng diễn ra phần thảo luận giữa cơ quan quản lý và các địa phương. Đại diện Ủy ban TCĐLCL Quốc gia đã trao đổi, làm rõ, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc liên quan đến hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng, giúp các địa phương vận hành hiệu quả mô hình chính quyền 2 cấp.